Lịch
sử và Tinh thần Nhóm Mân Côi
Bài
6: Thời đại truyền giáo của người giáo dân
Bây giờ chúng ta hãy đề cập đến lời tự ngôn về sứ vụ truyền giáo, sự lựa
chọn thứ hai của chúng ta: Cha J. Eyquem mang lấy nỗi lo âu về ơn cứu độ tha
nhân trong tư cách đứa con xứng đáng của thánh Đa Minh. Chúng ta hãy đề cập đến
vấn đề này dưới 3 góc cạnh: hứng khởi thuở ban đầu, tìm giải pháp và việc tiếp
cận với tông đồ giáo dân.
1. Hứng khởi
thuở ban đầu
1.1. Vào năm
1945, về sự thích nghi và tổ chức sứ vụ
Có một hứng khởi. Người tu sĩ trẻ Đa Minh vừa mới được truyền chức linh
mục viết một bức thư vào tháng 9-1945 cùng ký tên với tu sĩ Louis-Marie
Bouhier, gửi tới Tỉnh hội Tỉnh dòng Toulouse: về sự thích nghi và tổ chức tác
vụ; ngày này là sự kiện đáng nhớ đối với Cha Eyquem. Tu sĩ P. Bouhier cũng như
tu sĩ P. Jacques Loew đều là tập sinh cùng năm tại Toulouse và là sinh viên Đa
Minh tại Saint-Maximin cùng thời với Cha Eyquem. Ước mong của Cha Eyquem là trở
thành linh mục làm việc bên cạnh Cha Loew và trong ý hướng truyền giáo, được
liên kết với thế giới lao động vô sản, chắc chắn đã được chuẩn bị trong những
năm sống ẩn dật này.
1.2. Có thể liên
lạc với nhiều người
Bức thư được viết trước đây vào tháng 9-1945 lặp lại một bức thư được
viết vào tháng 5 nhắc lại:
“... Khi chúng ta nói rằng tác vụ của chúng ta đã đánh mất mối liên lạc
với dân chúng trong một số lớn trường hợp, và rằng điều làm cho chúng ta cảm
kích, đó chính là sự vắng mặt của tổ chức mà tác vụ đó trình bày, chúng ta chỉ
làm cho người ta trình bày tư tưởng của nhiều người. Người ta rao giảng ở đây;
người ta giảng thuyết ở kia; cứ như thế. Mọi người đều có thể rao giảng bất cứ
ở nơi đâu.
Tham gia vào các sứ vụ đặc biệt, điều gây ngạc nhiên đó là không có khả
năng đào sâu một cái rãnh. Những tác vụ khác nhau không được dự liệu trước mang
lại sự tương trợ lẫn nhau. Đối mặt với chúng ta, chống lại chúng ta, quân đội
đầy sức mạnh, những sức mạnh thù địch của Kitô giáo, đang cố thực hiện sức phá
hoại của nó. Chúng ta tiến hành một cuộc chiến của những tay đấu súng francs để
chống lại chúng”.
1.3. ... Giúp
con người sống vai trò Kitô hữu
Cha Eyquem vội vàng viết như sau:
“Trong một xã hội không thích hợp với việc thăng tiến đời sống Kitô giáo
và đằng sau một thời đại của chủ nghĩa duy kỷ đã bị sự ác hoành hành đang cố
lôi kéo đám đông dân chúng vào trong những hình thức đào tạo thù nghịch với Giáo
lý Kitô, điều trở thành cần thiết là phải nghiêng về không chỉ là nỗi khổ đau
tinh thần của tâm hồn, mà còn phải nghiêng về những gánh nặng của xã hội và
những lỗ hổng kinh tế đang cầm giữ con người ở ngoài Giáo lý Kitô giáo.
Rất cần thiết là phải giúp con người sống làm Kitô hữu. Đám đông dân
chúng sẽ nghe bằng một cái tai sao lãng những bài học của các nhà giảng thuyết
nếu đám đông giữ cảm tưởng rằng những nhà giảng thuyết này không tố cáo đầy đủ
cái chủ nghĩa anh hùng mà họ đòi hỏi các nhà giảng thuyết, và không làm gì để
tạo nên quanh đám đông một bầu khí mang tính nhân văn hơn”.
2. Tìm kiếm các
giải pháp
2.1. Phương pháp
sư phạm của việc tiếp đón
Cha Eyquem cũng lo lắng về những giải pháp: những tư tưởng không thể đáp
ứng đủ. Quan niệm này đánh mất cái nền tảng với các Nhóm Mân Côi. Đặc biệt cần
phải đề cập tới việc xây dựng một khoa sư phạm về việc tiếp đón. Đoạn trích từ
“Rosaire dans la Pastorale”, số ra tháng 1-1971, nói như sau:
“Khoa sư phạm của việc đón tiếp: bởi vì chỉ có một khoa sư phạm này, nên
đối với phong trào nó không phải là một khoa dễ dàng làm cho người ta bỏ qua
nhất.
Do đó, để cho người ta cầu nguyện chung với nhau mỗi tháng một lần tại
tư gia, cần phải dạy cho người tín hữu giáo dân biết mở cánh cửa lòng mình ra.
Việc đón tiếp người khác tại nhà mình, người ta sẽ thấy rõ những đồ đạc và dụng
cụ mà mình có. Người ta sẽ biết là mình có sắp xếp ngăn nắp hay không. Người ta
sẽ làm dơ bẩn sàn nhà của mình!
Điều đó giả thuyết là có một cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy cá
nhân. Tại sao người ta lại gặp nhau cầu nguyện? Người ta cũng có thể cầu nguyện
sốt sắng một mình cơ mà! Đón tiếp người khác tại nhà mình giả thiết rằng người
ta không xử lý tốt những khó khăn rắc rối: cầu nguyện tại nhà thờ tốt hơn cơ
mà, vì nhà thờ được xây lên để làm việc ấy mà! Cái chiêu bài đen tối để che dấu
một sự từ chối, từ chối mở lòng mình ra đồng thời từ chối mở cửa nhà mình ra
đón tiếp người khác. Điều đó cũng giả thiết rằng người ta sẽ nhận ra mọi người
đều là anh em với nhau, và rằng do đó sẽ không có mối hận thù hay thương tổn
nào có thể đi ngược lại với lòng tha thứ của Kitô giáo: tôi không muốn đón tiếp
anh chị em khác tới nhà tôi cầu nguyện chung với nhau, vì tôi khó chịu với
những việc như thế...”.
Câu trả lời có dấu hiệu khả quan và nhân ái cho vấn đề về sự vô tâm bằng
sự cô lập chính mình cũng làm cho các Nhóm Mân Côi trở nên khác biệt với sự
ganh đua ngay bây giờ cũng đang xảy ra với các nhóm tôn giáo khác không phải là
công giáo mà người ta gọi là những phong trào tôn giáo mới hay là các giáo
phái.
2.2. Ân sủng của
ngôi nhà
Trước đó không lâu, tức là năm 1966, Cha nhấn mạnh lên những nền tảng
của tất cả điều đó: “Đó là một ý tưởng rất quý giá đối với các Nhóm Mân Côi: nhà
của một người Kitô hữu trở thành nhà cầu nguyện. Đó là lý do tại sao việc cầu
nguyện chung mỗi lần một tháng có thể tìm thấy ở đó môi trường bình thường. Do
đó, thật là nguy hiểm và xa lạc với Tin Mừng nếu tin rằng để cầu nguyện thì
nhất thiết phải tập họp lại trong một nhà thờ.
Chắc chắn nhà thờ là nhà của Thiên Chúa trong số những nhà của con
người. Và chính trong nhà thờ mà Dân Chúa, một cách ưu tiên, tập họp với nhau
mỗi Chúa Nhật để cử hành Bí tích Thánh Thể.
Nhưng chính mỗi người Kitô hữu là một ngôi nhà của Thiên Chúa; họ là một
công trình sống động, một viên đá sống động, nói theo kiểu Thánh Phêrô Tông đồ,
một ngôi nhà Thiên Chúa ngự trị. Chúng ta nên nhớ rằng Chúa Giêsu nói: “Ai yêu
mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy
sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23). Thánh Phaolô cũng nói: “Chính chúng
ta là đền thờ của Thiên Chúa hằng sống” (2 Cr 6,16).
Nhưng nếu chúng ta ở tất cả những nơi là những nơi sống động của Thiên
Chúa, thì do đó ngôi nhà mà chúng ta đang sinh sống, và nếu chúng ta là giáo
dân thì ngôi nhà của chúng ta cũng là một ngôi nhà của Thiên Chúa. Chính trong
ngôi nhà chúng ta mà Thiên Chúa ban ân sủng cho chúng ta. Chính ở đó Thiên Chúa
nói với chúng ta. Chính ở nơi đó, qua cuộc sống hoàn toàn thấm nhuần tinh thần Phúc
Âm, những đầy tớ đích thực của Thiên Chúa đang thể hiện vai trò của mình. Chính
ở trong ngôi nhà mình, chúng ta phải đi trước Thiên Chúa. Chính ở đó, những
người bệnh tật hướng mắt nhìn lên Ngài, kêu xin Ngài cứu giúp họ, dâng những
đau khổ của họ hợp cùng Chúa Giêsu trên thập giá để làm vinh danh Thiên Chúa
Cha và để cứu độ các linh hồn. Chính ở trong ngôi nhà mình, người Kitô hữu sống
trung thành với Bí tích Hôn Nhân.
Vì thế, với lý do đó, tất cả mọi ngôi nhà của các Kitô hữu đang sinh
sống trong đó phải mang dấu ấn của Chúa Kitô một cách rõ ràng có thể thấy được:
một tượng thánh giá có Chúa chịu nạn đặt ở nơi xứng đáng. Và cũng cần có hình
ảnh của Đức Maria Trinh Nữ, Mẹ Chúa Giêsu, và đồng thời là khuôn mẫu của tất cả
chúng ta và là Mẹ của chúng ta.
Nhờ vậy, chúng ta hiểu ra rằng chúng ta có thể say mê họp mặt cầu nguyện
chung với nhau tại nhà riêng của một Kitô hữu. Đó là cách chúng ta khẳng định
rằng Thiên Chúa luôn luôn hiện diện với chúng ta và rằng lề luật của Thiên Chúa
phải thấm thuần vào tất cả mọi ngóc ngách của đời sống chúng ta. Các Nhóm Mân
Côi làm chứng rằng Thiên Chúa của người Kitô hữu là một vị thần gần gũi, và
rằng con người và tất cả mọi người đều là nhà, là gia đình của Thiên Chúa. Lời
ngôn sứ này như thế được thực hiện do thánh Phaolô kể lại: “Ta sẽ sống giữa họ
và Ta sẽ đi với họ, Ta sẽ là Thiên Chúa của họ và họ sẽ là dân của Ta”
(Courrier des Responsables).
Lời cầu nguyện dâng lên Đức Trinh Nữ, được kể lại trước đây, đang còn
vang lên với những lời tự ngôn này. Lời cầu nguyện đó xen lẫn vào những lời tự
ngôn ấy trong những con tim để chúng toả sáng bằng một lời ca của những tâm
hồn.
2.3. Khuôn mặt
cụ thể của sự hiệp thông thiêng liêng
Ngôi nhà mình ở mang lại một chiều kích cụ thể cho sự hiệp thông thiêng
liêng. Địa điểm, bầu khí mà nó gợi lên, liên quan đến mong muốn truyền giáo đối
với những người nghèo khổ nhất và đối với những người vì rất nhiều lý do và
thời gian, đã đánh mất khoảng cách với đời sống của Giáo Hội và đời sống đức
tin của chúng ta.
Dần dần cộng đoàn huynh đệ trở thành một nơi hỗ trợ trong việc cầu
nguyện và tình bạn hữu. Người ta hiểu rõ về những gì mà Lịch sinh hoạt Nhóm
(Calendrier d’ Equipe) của chúng ta là dấu vết vật chất hằng ngày. Thánh Phaolô
sẽ nói rằng chúng ta trở thành chi thể của nhau.
3. Sự gần gũi
với tông đồ giáo dân
3.1. Củng cố sứ
vụ truyền giáo
Sự tiếp cận gần gũi với tông đồ giáo dân liên quan đến việc củng cố sứ
vụ loan báo Tin Mừng và với ý hướng thích ứng với gia sản của mỗi một người:
“Định hướng truyền giáo của các Nhóm Mân Côi giải thích con số những
thiên hướng cụ thể liên quan đến những phương tiện đang được thực hiện; đã và
đang còn phải đấu tranh không ngừng chống lại cám dỗ về cái tốt hơn và cái tốt
nhất, nếu người ta không muốn vượt lên trên cái đầu của người nghèo. Một định
hướng như thế cần thiết là phải đạt đến việc thiết lập một phong trào giáo dân.
Bởi vì chính người giáo dân sống cùng với đám đông dân chúng hằng ngày” (Le
Rosaire dans la Pastorale, tháng 1-1971).
3.2. Lãng quên
tông đồ Kinh Mân Côi...
Còn có một câu trả lời cụ thể cho nhận xét giận dữ của Cha Eyquem vào
năm 1945. Tuy nhiên, mối bận tâm truyền giáo này đã dẫn đưa cha một cách chính
xác tới việc muốn bỏ tông đồ Kinh Mân Côi. Ngài nhắc lại điều đó trong một Hội
nghị về Kinh Mân Côi vào ngày 12-3-1989:
“Tôi đã không chọn lựa là phải quan tâm đến Kinh Mân Côi. Chắc chắn là
việc tôi dấn thân vào thời đại đối với Đức Trinh Nữ không phải là một bí mật
đối với ai cả, nhưng là đối với thời đại mà Đức Maria là của chung cho nhiều
người. Vào năm 1945, tôi chưa được 30 tuổi. Tôi đã học xong một năm trước đó.
Nếu tôi đã yêu mến Đức Trinh Nữ Rất Thánh hết lòng, thì mối quan tâm trí thức
của tôi đã phải thay đổi khác rồi.
Điều làm tôi hứng thú, đó là thế giới, một thế giới cần phải đưa đức tin
vào đó. Trong nhiều năm trời, tôi đã theo học những khoá về “Kinh tế và Nhân
bản” tại Arbresles gần Lyon. Cuốn sách nổi tiếng “Nước Pháp, đất nước truyền
giáo ư?” đã ghi dấu ấn sâu sắc nơi tôi. Một khuôn mẫu ưu tư ngày hôm nay vẫn
còn lưu giữ trong tôi.
Vì thế chẳng có gì gây ngạc nhiên cả, vào năm 1951 (thực tế là tháng 11-1950)
tôi đã xin Cha Giám tỉnh Nicolas cho tôi thôi giữ chức vụ đặc trách Kinh Mân
Côi mà tôi đã nhận trước đó để tham gia vào sứ vụ thợ thuyền của Cha Loew tại
Marseille (người ta biết rằng cha đã bắt đầu sống đời tu trì với tu sĩ Loew từ
năm 1935 và cho đến khi các ngài chịu chức linh mục vào năm 1942, họ đã học
chung thần học với nhau). Tôi muối là một linh mục thợ. Nhưng thời gian đó khó
khăn quá. Việc cho phép của Cha Giám tỉnh thôi thì không đủ, nếu không có hợp
đồng về sứ vụ truyền giáo cho thợ thuyền. Cần phải có phép của Bề trên Tổng
quyền - người đã từ chối không cho phép tôi tham gia sứ vụ này”.
Tuy nhiên vào năm 1953, Cha phải đảm nhận lại chức vụ đặc trách tông đồ
Kinh Mân Côi tại Toulouse, nơi Cha sẽ nâng cao mối bận tâm truyền giáo và người
nghèo lên. Kinh Mân Côi cũng được coi như là phương tiện truyền giáo đối với Cha
Eyquem, trong khi đó Cha không còn muốn đặc trách về Kinh Mân Côi nữa...
Còn tiếp...
F.X. Trần Kim Ngọc, OP, chuyển ngữ