Hạnh phúc là ý nghĩa, là mục đích của cuộc sống, là sự cố gắng và kết thúc của một đời người.

Aristotle
Truyen-tin.net - Sơ lược dữ kiện:

  • ♥ Tiểu sử Các Thánh: 272
  • ♥ Các Bài đọc thánh lễ: 772
  • ♥ Văn hoá, nghệ thuật: 1154
  • ♥ Tin tức, chuyên đề... 15355
  • ♥ Thư viện hình ảnh: 6916
  • ♥ Suy niệm Lới Chúa: 784
  • ♥ Video: 2269
  • ♥ Tài liệu tham khảo: 780

... cùng những sưu tập khác.
tt
Laudetur Jesus Christus - Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô NewsFeed
-
TƯ LIỆU » Giáo Tỉnh Huế» GP Kontum
S  M  L
(Cập nhật: 04/11/2008)
 
I. LỊCH SỬ

 

1. ĐẤT NƯỚC TÂY NGUYÊN

  Địa giới giáo phận Kontum hiện nay nằm gọn trong hai tỉnh Kontum và Gia Lai với diện tích 25.110km2, thuộc vùng Bắc Tây Nguyên.

 

  Miền Bắc Tây Nguyên chạy dọc 2 bên sườn phần phía Nam của dãy Trường Sơn, dài khoảng 450km, rộng khoảng 140km. Bắc giáp với tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Nam giáp Nam Bộ. Đông giáp các tỉnh duyên hải miền Trung. Tây giáp Lào -Cambodia. Triền phía Tây Trường Sơn thoai thoải; triền phía Đông hơi thẳng đứng. Chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, dãy Trường Sơn có nhiều nếp hình thành phức tạp. Nhấp nhô trùng điệp các rặng núi với các ngọn cao như Ngọc Niay cao 2.259m (Huyện ĐăkGlei), Nang Brai cao 1.780m (H. Sa thầy), Lang Biang cao 2.163m (TP. Đà Lạt), Hàm Rồng (1.028m) ở TP. Pleiku hay Phượng Hoàng (H. Đức Cơ), nơi đây, năm 1958, có đặt một tượng Đức Mẹ cao 3m. Cao nhất là đỉnh Ngọc Linh - được mệnh danh là nóc nhà Tây Nguyên - cao 2.598m (Huyện ĐăkGlei), nơi bắt nguồn của nhiều dòng sông, lạch, suối.

 

  Miền Kontum có sông Pôkô chảy từ Bắc Kontum (ĐăkGlei) xuống phía Nam nhập với dòng sông Sêsan đổ qua Mekong. Từ Đông Bắc đổ vào dòng Pôkô này còn có sông Đăk-Tơkan chảy qua Đăktô, sông ĐăkPsi chảy qua Diên Bình và sông ĐăkBla bọc qua thị xã Kontum.

 

  Miền Pleiku có sông Ayun và sông Ba, bắt nguồn từ hướng K’Bang chảy xuôi gặp nhau tại thị trấn Ayun Pa (Cheo Reo), rồi đổ vào sông Đà Rằng chảy ra Thái Bình Dương.

 

  Cũng có những hồ lớn: như Biển Hồ, còn gọi là hồ Ia Nueng rộng 230ha (TP. Pleiku), hồ Ia Băng (H. Mang Yang), hồ Yok Dania, hồ Lắc (Đăklăk).

 

  Có các thác nổi tiếng như thác Ialy, cao 60m (H. Sa Thầy vàø H. Chư Păh), nơi đang xây dựng công trình thuỷ điện lớn thứ 3 trong cả nước; thác Lệ Kim cao hơn 30m (H. Ia Grai), thác Đăk Trôi (H. Mang Yang), thác Suối Đá (H. Ayun Pa), thác Đăk Xơ Nge (H. Kon Plông), thác Maray (H. Sa Thầy).

 

  Vùng Bắc Tây Nguyên chủ yếu là núi và đồi, đồng bằng chỉ là những dải đất nhỏ bé trải dọc theo mấy sông chính như sông Pôkô, sông ĐăkBla, sông Ayun và sông Ba. Cánh đồng ven sông ĐăkBla ở Kontum chính là miền Đất Hứa mà Đức cha Cuénot Thể đã từng mong ước đoàn truyền giáo sớm tìm gặp và đây là cái nôi truyền giáo thành công nhất vùng truyền giáo Tây Nguyên kể từ năm 1848.

 

  Miền Tây Nguyên nằm gọn trên các cao nguyên Xơ Đăng, Kontum-Pleiku, Đăklăk và Lang Biang. Có người gọi là cao nguyên Nam Trung Bộ. Đất được cấu tạo với khối đá phún xuất, hoa cương và bazan. Chủ yếu là vùng bazan đất đỏ rất thích hợp với các loại cây công nghiệp như chè, cà phê, tiêu, cao su. Khí hậu tương đối dễ chịu, phân thành 2 mùa mưa nắng rõ rệt, nhiệt độ trung bình 23oC.

 

2. CON NGƯỜI TÂY NGUYÊN

 

  Các bộ tộc bản địa Tây Nguyên chủ yếu là Ba Na, Xơ Đăng, Gia Rai, Ê Đê. Gié-Triêng, M’nông, Cơ Ho, Brâu, Rơ Măm… Vào đầu thế kỷ XIX, bắt đầu có ít người Kinh từ miền xuôi lên buôn bán dọc biên giới, tiếp sau là số người thuộc các phái đoàn truyền giáo, tiếp đến số người lên lập nghiệp, khi miền xuôi bắt đạo gắt gao. Mãi về sau các nhà chính trị, các nhà quân sự người Pháp mới bắt đầu quan tâm tới vùng đất này, kể từ đó con số người Kinh lên lập nghiệp lại càng đông.

 

  Những năm 1925-1930, người Pháp đã chiêu mộ tới 75.000 người Kinh lên lập các đồn điền cao su, chè. Năm 1954, sau hiệp định Genève 20-7-1954, có tới 64.000 người, đa số là đồng bào Công giáo từ miền Bắc di cư vào lập nghiệp ở tỉnh Đăklăk và Pleiku (Gia Lai ngày nay). Tới năm 1957-1958, thêm 30.000 người thuộc 3 tỉnh miền duyên hải Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định lên xây dựng các khu dinh điền rải rác khắp 4 tỉnh Kontum, Pleiku, Đăklăk và Phước Long.

 

  Sau 1975, nhiều gia đình từ miền Trung hay miền Bắc lên xây dựng các vùng kinh tế mới cũng như lập nên các nông trường và các trang trại, trong số đó có đồng bào thuộc nhiều sắc tộc thiểu số từ Bắc vào lập nghiệp. Nguyên tại địa bàn Thành phố Pleiku đã có tới 28 sắc tộc như Thái, Nùng, Mường…

 

  Tây Nguyên đã thay da đổi thịt cách nhanh chóng kể từ ngày số người Kinh lên lập nghiệp. Nhiều con đường đã được hình thành nối Đông với Tây, tức thành phố Quy Nhơn với cửa khẩu Đức Cơ chạy qua hai đèo An Khê và Mang Yang (Cổng Trời), thành phố Pleiku, có quốc lộ 19. Chạy từ phía Bắc (TP. Đà Nẵng) xuống phía Nam (quốc lộ 13, tỉnh Bình Phước) có quốc lộ 14 chạy qua Kontum - Pleiku - Buôn Ma Thuột. Quốc lộ 24 nối Kontum với Quảng Ngãi. Quốc lộ 25 nối Pleiku-Phú Bổn-Tuy Hoà (Phú Yên). Quốc lộ 26 nối Buôn Ma Thuột với Nha Trang. Quốc lộ 27 nối Buôn Ma Thuột với Đà Lạt. Quốc lộ 28 nối Gia Nghĩa (tỉnh Đăklăk) với Di Linh (tỉnh Lâm Đồng) và Phan Thiết. Hy vọng rằng hệ thống đường ngang dọc này sẽ giúp Tây Nguyên phát triển mạnh trong những năm tháng tới, nhờ đó các thế mạnh về tài nguyên thiên nhiên như rừng, mỏ quặng vẫn còn bị chôn giấu dưới lòng đất đỏ bazan cũng sẽ được khai thác nhằm nâng cao đời sống người dân.

 

  Năm 1997, dân số trên địa bàn hai tỉnh Gia Lai và Kontum, cũng đã có tới hơn 1.181.682 người với 50,68% là dân tộc thiểu số.Theo thống kê cuối tháng 12-2005 dân số giáo phận Komtum là 1.500.720 người trong đó dân số Công giáo là 224.235 người.

 

3. ĐƯỜNG TRUYỀN GIÁO TÂY NGUYÊN

 

  Ngay từ năm 1765, Đức cha Guillaume Piguel (1704-1771) đã gửi thừa sai lên truyền giáo miền Kontum, nhưng không thành công.

 

  Năm 1775, Đức cha Pigneau de Béhaine (1771-1799) gửi một đoàn truyền giáo do cha Faulet hướng dẫn tiến vào vùng Tây Nguyên thuộc sắc dân Xtiêng, người Cuy (?) sống dọc theo sông Chlong, các ngài gặp 2 gia đình Công giáo đã tới sinh sống tại đây từ trước. Sau khi mua một mảnh đất, các ngài cho dựng một căn nhà vừa làm nơi tạm trú vừa làm nhà nguyện. Vì ngã bệnh, các ngài phải trở về Prambey-Chlom, sau bình phục mới trở lại và rồi lại ngã bệnh một lần nữa. Công việc truyền giáo đành phải bỏ ngang vào mùa xuân 1776.

 

  Nhưng có lẽ công cuộc truyền giáo Tây Nguyên đã thật sự sôi động và đạt thành quả vững chắc lại chính là vào thời kỳ Đức cha Etienne Théodore Cuénot Thể, giám mục đại diện tông toà Đông Đàng Trong. Chính ngài đã mở đường truyền giáo vùng phía Tây, tức vùng Tây Nguyên ngày nay. Lịch sử truyền giáo vùng này có thể chia thành 3 giai đoạn:

 

- Giai đoạn 1: khai sáng.

- Giai đoạn 2: phát triển.

- Giai đoạn 3: trưởng thành.

 

Giai đoạn 1: Giai đoạn khai sáng miền truyền giáo Kontum (1848-1932)

 

  Tình hình Việt Nam đã có nhiều thay đổi từ sau khi Đức cha Pigneau de Béhaine (+ 9-10-1779) và vua Gia Long qua đời (3-2-1820). Kể từ năm 1825, nhiều sắc lệnh cấm đạo đã được ban hành. Công việc truyền giáo cho đồng bào các sắc tộc từ hướng Tây Đàng Trong hầu như bị chậm lại, thì từ hướng Bình Định, Phú Yên lại có phần sôi động hơn. Mặc dù phải chăm sóc đoàn chiên rải rác trên một lãnh thổ rộng lớn, chạy dài từ sông Gianh phân chia hai miền Bắc Nam tới mũi Cà Mau và biên giới Thái Lan, Đức cha Cuénot Thể vẫn không quên những anh chị em thuộc nhiều sắc tộc khác trên vùng cao. Đây luôn là ưu tiên trong các chương trình hoạt động của ngài.

 

  Vừa lên kế vị Đức cha J.L. Taberd năm 1841, Đức cha Cuénot Thể đã triệu tập Công đồng Gò Thị để ổn định đời sống giáo phận sau nhiều năm cấm cách, đặc biệt, đưa ra hướng mục vụ cảm thông tha thứ và tạo điều kiện cho những anh chị em vì yếu đuối đã sa ngã trong thời cấm đạo. Nhưng chủ yếu vẫn là đào tạo hàng ngũ linh mục bản xứ để đẩy mạnh công việc truyền giáo.

 

  Năm 1839, ngài đã cử hai phái đoàn truyền giáo: một do ông Cả Ninh dẫn đầu khởi hành từ Cam Lộ, Quảng Trị và một do ông Cả Quới lên đường từ Phú Yên. Cả hai đoàn đều thất bại.

 

  Qua năm 1842, phái đoàn ông Cả Quới gồm Cố Duclos và Cố Miche, 11 thầy giảng và 3 giáo dân lại lên đường. Nhưng ai ngờ chỉ mới đi sâu vào vùng dân tộc, ngày 16-2 tất cả đã bị bắt giải về Huế.

 

  Năm 1846, Đức cha Cuénot Thể gửi 2 cha người Việt là cha Vận và cha Hoà lên mở vùng Buôn Đôn thuộc Đăklăk. Tiếp sau là cha Fontaine Phẩm được chuyển từ Plei Chư xuống. Năm 1856, tất cả phải rút về Kontum.

 

  Với một ý chí sắt đá, Đức cha Cuénot không chùn bước, ngài hoàn toàn tin tưởng và phó thác nơi Chúa Thánh Thần. Năm 1848, một năm có tính quyết định đã đến.

 

  Vị mục tử này hướng tới thầy Phanxicô Xaviê Nguyễn Do, còn gọi là An, một chủng sinh vừa tốt nghiệp Đại chủng viện Pinang về nước. Ngài thấy nơi con người thông minh, quả cảm và khiêm tốn này có khả năng mở đường tiến sâu vào thế giới các sắc dân miền núi phía Tây.

 

1. Thầy Sáu Do mở đường (1848-1850)

 

  Thầy Do đã khéo léo đóng vai một người đầy tớ trung thành và cần mẫn gánh hàng cho một nhà buôn người Kinh. Sáu tháng đi từ làng này tới làng khác, thầy đã tiếp cận với dân Ba Na, nói được tiếng nói của họ, biết phần nào phong tục tập quán cùng thu thập được ít điều về địa hình địa vật của vùng cao. Thầy mau mắn về Gò Thị tường thuật lại cho vị chủ chăn ngày đêm ngóng chờ tin vui.

 

  Được tin vui, Đức cha cử ngay một đoàn thừa sai lên đường và cắt cử thầy Do làm trưởng đoàn. Một đoàn buôn chính hiệu, có 4 chủng sinh cùng đi. Chính “cái chính hiệu với đồ hàng cồng kềnh của nhà buôn” này đã làm loá mắt những kẻ tham chặn đường cướp hết. Các vị thừa sai đành phải bỏ của chạy lấy người.

 

  Qua năm 1849, lại một đoàn truyền giáo khác lên đường. Đoàn gồm có cha J.P. Combes Bê, 4 thầy giảng và một số chủng sinh. Đi từ Gò Thị, lên Bến, tới trạm Gò, đoàn gặp phải một đàn voi rượt đuổi. Tất cả bỏ chạy tán loạn, thoát được cơn giận của voi, về tới Bình Định, phái đoàn chạm phải cơn “thánh nộ” của Đức cha Cuénot. Được nghỉ 15 ngày, phái đoàn lại lên đường, lúc đó là đầu năm 1850.

 

  Lên đường lần này có thêm cha Fontaine Hoàn (sau gọi là Bok Phẩm) với 7 thầy. Đến Trạm Gò, tiến vào làng Baham, đi qua làng Kon Bơlu, phái đoàn tiến sâu vào làng Kon Phar. Đức cha đã ân cần dặn dò nhiều lần “nhớ” phải tránh đường mòn của các lái buôn người Kinh, phải tránh tù trưởng Bok Kiơm kiêm chức vị “quan triều đình Huế” có nhiệm vụ chặn đường xâm nhập của các thừa sai.

 

  Ngày núp, đêm đi, vạch rừng, lội suối, leo đèo, với đủ thứ đe doạ của rừng thiêng nước độc, của khí hậu, của thú dữ. Lệnh “không được trở lại” vẫn văng vẳng bên tai. Nhưng “Đất động! Trời sập! Đoàn gặp đúng Bok Kiơm! Biết làm sao bây giờ? Hồn xiêu, phách lạc, hết đường “chạy trốn”, cả đoàn như chết đứng giữa trời! Chính lúc đang đứng đơ như những tượng gỗ, thì “con người hung dữ kia lại lên tiếng trước: “Sao? Quý vị là ai? Cứ nói thật đi, tôi sẽ giúp cho!”.

 

  Thế là lại thêm một bất ngờ nữa! Thay vì hạch hoẹ, bắt nộp cho triều đình, Bok Kiơm lại tỏ ra thân thiện ngay. Có lẽ cũng chính cái vẻ mất hồn khiếp vía trên các khuôn mặt những con người không có một tham vọng nào khác ngoài tình thương mà liều mình đi đến với những anh chị em miền đất xa lạ, nên con người “đáng khiếp” kia bỗng trở thành “con người dễ thương”. Ông đã trở thành một Cyrus miền truyền giáo Tây Nguyên! Phái đoàn tiếp tục đi vào làng Kon Kơlang.

 

  Ngày 11-11, thầy Thám, em thầy Do, dẫn một nhóm truyền giáo khác lên Kontum. Cùng đi có cha P. Dourisboures Ân (25 tuổi), cha B. Desgouts Đề (45 tuổi). Họ đi theo lộ trình Gò Thị - Bến - trạm Gò - Bơham - Bơlu - Kon Phar để tới Kon Kơlang. Tại đây, anh em gặp nhau mừng vui khôn xiết. Tất cả bắt tay dựng căn nhà 2 gian: một gian để ở, một gian làm nhà nguyện. Công việc truyền giáo Tây Nguyên bắt đầu một trang sử mới với nhiều hứa hẹn, nhưng cũng đầy khó khăn!

 

2. Phân định và thành lập các trung tâm Miền Truyền giáo (1851)

 

  Sau một thời gian dò dẫm, tìm hiểu với sự giúp đỡ chân tình của Bok Kiơm, các vị thừa sai đã tới được miền Đất Hứa năm 1850, chính là cánh đồng Đăk Bla như Đức giám mục hằng chờ mong. Năm sau, ngài quyết định thiết lập ngay 4 trung tâm truyền giáo và đặt cha Combes Bê làm bề trên miền.

 

  Trung tâm Plei Rơhai: do cha Bernard Desgouts và thầy Sáu Do phụ trách lo truyền giáo cho bộ tộc Ba Na. Địa điểm nằm ngay địa sở Tân Hương ngày nay. Sau ít tháng, thầy Sáu Do được gọi về Gò Thị chuẩn bị lãnh tác vụ linh mục. Năm 1853, cha Do trở lại trung tâm và tiến hành xây dựng nhà thờ Plei Rơhai. Cha phát động mô hình nông trang trên miền đất này để cải thiện cuộc sống của đồng bào dân tộc và để tự túc lương thực phòng đường tiếp tế từ vùng xuôi khi bị cắt đứt! Đức cha còn chỉ thị cho cha Desgouts mở ngay Chủng viện thừa sai Miền Kontum trong khi miền xuôi đang bị cấm cách gắt gao. Nhưng vì khí hậu khắc nghiệt, chủng viện đã không trụ lâu được.

 

  Trung tâm Kon Trang: Nằm phía Bắc Kontum, được trao cho cha P. Dourisboures Ân phụ trách để truyền giáo cho bộ tộc Xơ Đăng. Cha hăng say học tiếng và La Tinh hoá chữ viết Xơ Đăng làm phương tiện tiếp xúc và truyền giáo. Một năm sau, Đức cha đã tăng cường cho trung tâm một vị thừa sai mới, cha Arnoux A. Ngày 1-1-1852, Cha Dourisboures Ân đã ban phép Thanh Tẩy cho một em bé sơ sinh. Đây là hoa trái đầu mùa. Vào ngày 16-10-1853, hai thiếu niên Giuse Ngui, 12 tuổi (+ 1857) và Gioan Pat, 9 tuổi được lãnh nhận phép Thanh Tẩy.

 

  Trung tâm Plei Chư: Nằm phía Tây Kontum. Cha Fontaine Hoàn (Bok Phẩm) phụ trách trung tâm lo loan báo Tin Mừng cho bộ tộc Gia Rai. Năm 1854, Đức cha thuyên chuyển cha xuống Pơnong (M’nông) - Trung tâm Buôn Đôn - ở Đăklăk - làm việc với cha Hoà và cha Vận. Nhưng chẳng được bao lâu cha cũng phải rút về lại Kontum.

 

  Trung tâm Kon Kơxâm: được trao cho cha Bề trên đầu tiên Miền Truyền giáo, cha J.P. Combes. Nằm về phía Đông Kontum, trung tâm có nhiệm vụ giảng đạo cho anh chị em Ba Na, Jơ Lơng. Cha chọn Đức Bà Cứu Chữa làm bổn mạng trung tâm, cha cũng bắt tay ngay vào công việc La Tinh hoá chữ viết. Năm sau, cha soạn xong cuốn Giáo Lý và Sách Kinh bằng tiếng Ba Na. Qua năm 1853, cả làng Kon Kơxâm tòng giáo và ngày 28-12-1853, cha đã ban phép Thanh Tẩy cho ông Giuse H’Mur. Đây là người tín hữu Ba Na đầu tiên. Nhưng cha đã qua đời 5 năm sau (1857), khi mới 32 tuổi. Trách nhiệm bề trên chuyển qua vai cha P. Dourisboures.

 

3. Máu Đức cha Cuénot Thể đã đổ. Giáo đoàn Tây Nguyên nở rộ

 

  Đức cha Cuénot Thể đảm nhận giáo phận rộng lớn Đàng Trong đúng vào thời điểm cấm đạo gắt gao nhất. Các phương thức cấm cách thật tinh vi, nhắm tiêu diệt từng đối tượng theo từng giai đoạn khác nhau. Ngài điều khiển giáo phận từ hầm trú ở Gò Thị, ngài làm việc ngày đêm để nắm vững tình hình giáo phận, nhưng không thể xuất hiện công khai hoặc đi lại tự do. Dù số nhân sự ít ỏi, ngài vẫn dành cho miền truyền giáo này nhiều vị thừa sai. Ngài cũng không ngừng cổ vũ và vun trồng ơn gọi linh mục bản xứ.

 

  Để đẩy mạnh công cuộc truyền giáo, ngài đã xin Toà Thánh chia nhỏ địa phận.

 

  Đợt 1: Năm 1844, chia địa phận Đàng Trong thành Đông Đàng Trong và Tây Đàng Trong.

 

  Đợt 2: Năm 1850, chia địa phận Đông Đàng Trong thành Bắc Đàng Trong và Đông Đàng Trong; chia Tây Đàng Trong thành Tây Đàng Trong và Nam Vang. Kontum vẫn thuộc Đông Đàng Trong, tức giáo phận Quy Nhơn sau này.

 

  Trong khi miền xuôi còn bị cấm cách, thì trên cao nguyên các làng dân tộc “đua nhau” trở lại. Khởi đầu là làng Kon Klor (1886), tới Kon Hngo Kơtu (1887). Chỉ trong 21 năm, đã có tới 94 làng trở lại. Có năm tới 12 làng (năm 1893), 14 làng (năm 1895) hoặc như năm 1897, ngoài 14 làng Ba Na, Xơ Đăng xin theo đạo, còn có cả một số làng bộ tộc Ê Đê cũng xin tòng giáo. Kết quả thật tốt đẹp. Sức người theo không kịp. Trước một tình hình sôi động như thế, các vị chủ chăn đã đẩy mạnh việc đào tạo nhân sự bản xứ. Đây là giai đoạn hình thành trường đào tạo Yao Phu và hình thức Nhà Chung sau này. Đúng như Toà Thánh đã tiên liệu và chỉ đạo: “phải ưu tiên làm sao cho sớm có người bản xứ truyền đạo và phục vụ người bản xứ!”.

 

  Ý thức tầm quan trọng của chỉ thị trên, cha J.L. Bonnard Hương quy tụ một số thanh niên dân tộc nhằm đào tạo họ thành các giáo lý viên cho các họ đạo. Công việc và chương trình này chỉ thật sự được tổ chức và đẩy mạnh nhờ quyết tâm cao của cha Martial Jannin Phước. Năm 1905, ngài xúc tiến xây dựng trường đào tạo các Yao Phu và khánh thành ngày 7-1-1908. Cha M. Jannin Phước là vị giám đốc đầu tiên. Chính ngài đã dám nghĩ dám thực hiện mẫu người Yao Phu. Ngài là linh hồn của công trình trọng điểm này. Năm 1911, tạp chí Hlabar Tơbang đã được phát hành để hỗ trợ cho công việc đào tạo.

 

  Từ trường này, nhiều thanh niên dân tộc đã chọn đời sống tu trì. Cụ thể, ngày 29-6-1932, ba thanh niên Ba Na đầu tiên đã lãnh nhận tác vụ linh mục: đó là các cha Micae Hiâu (1900-1949), cha Giuse Châu (1900-1955), cha Antôn Đen (1903-1987). Một trong 3 vị đã có một chỗ đứng đặc biệt trong lịch sử giáo phận Kontum: cha Antôn Đen, một nhà trí thức, một học giả Ba Na. Ngài đã dành suốt một đời dịch Thánh Kinh, dịch sách phụng vụ, viết hạnh các thánh và phụ trách tờ Hlabar Tơbang. Ngài âm thầm, chăm chỉ làm việc cho tới giờ phút cuối đời. Một kho tàng hiếm có của giáo phận! Giáo phận biết ơn ngài, biết ơn các bậc cha anh đã đào tạo được một người làm việc trí óc không biết mệt mỏi như thế!

 

Giai đoạn 2: Giai đoạn phát triển giáo phận tông toà Kontum (1932-1960)

 

1. Một chặng đường mới (1932-1945)

 

  Sau nhiều cố gắng xây dựng, ngày 18-1-1932, Toà Thánh đã công bố Nghị định thư thiết lập giáo phận đại diện tông toà Kontum tách từ giáo phận Mẹ Quy Nhơn: gồm các tỉnh Kontum, Pleiku, Đăklăk và Attâpư (Hạ Lào). Và ngày 23-1-1932, cha bề trên Martial Jannin Phước được bổ nhiệm làm giám mục tiên khởi quản nhiệm giáo phận, hiệu toà Gadara. Trường Cuénot tạm dùng làm toà giám mục. Chính Đức cha C. Dreyer, Khâm sứ Toà Thánh tại Đông Dương, đã từ Huế vào tấn phong cho vị giám mục mới ngay tại nhà thờ chính toà Kontum ngày 23-6-1932.

 

  Công việc đầu tiên và ưu tiên của vị tân giám mục là cho xây chủng viện Thừa sai Kontum (1935-1938). Nhà hoàn toàn bằng gỗ cà chích, dài 100m, vách trần bằng rơm và bùn đất, mái lợp ngói. Là một kiệt tác! Chính Đức giám mục thiết kế và trông coi tới hoàn thành. Ngài còn cho thực hiện nhà in, hệ thống dẫn thuỷ nhập điền, hệ thống thuỷ điện. Gặp buổi khó khăn, ngài cũng tự chế một chiếc ôtô với bánh xe bằng gỗ để di chuyển. Giáo phận có cả một xưởng lao động để giải quyết công việc trong giáo phận và đào tạo các tay nghề. Công việc truyền giáo vẫn tiến triển mạnh mẽ, các địa sở ngày càng phát triển.

 

  Ngoài tờ Hlabar Tơbang cho Yao Phu, giáo phận còn có các tạp chí Chức Dịch Thơ Tín (1933) cho Hội Chức việc Á Thánh Năm Thuông Giáo phận Kontum, Tạp chí Les Echos (1941) - sau đổi thành Tờ báo Dư Âm, năm 1968 đổi thành tờ Tiếng Vang, một tạp chí dành riêng cho các linh mục trong giáo phận. Trước đây vị khai sáng Miền Truyền giáo Tây Nguyên, Đức cha Etienne Cuénot Thể đã điều khiển giáo phận mênh mông từ hầm trú bằng thư từ suốt 26 năm trời, thì nay vị giám mục của Kontum cũng dùng hình thức tạp chí để huấn luyện và nuôi dưỡng nhân sự trong giáo phận.

 

  Ngày 22-4-1942, lm. Jean Sion Khâm đã được tấn phong giám mục kế vị Đức cha M. Jannin Phước đã qua đời năm 1940 hưởng thọ 73 tuổi (1867-1940). Ngài đã chuyển toà giám mục từ trường Cuénot về Chủng viện Thừa sai. Phần đất Attâpư được tách và sát nhập về Giáo hội Lào.

 

  Chiến tranh thế giới II (1939-1945) cũng đã cản trở công cuộc truyền giáo Tây Nguyên phần nào. Khi thế chiến chấm dứt, thì lịch sử giáo phận cũng sang trang mới.

 

2. Gian nan và vinh quang (1945-1960)

 

  Ý thức rằng giáo phận đang phải trải qua một giai đoạn hết sức tế nhị và khó khăn, nên ngày 5-12-1943, Đức giám mục giáo phận đã dâng hiến toàn thể giáo phận cho Trái Tim Vẹn Sạch Đức Trinh Nữ Maria. Nghi thức dâng hiến diễn ra trọng thể tại nhà thờ chính toà. 

 

  Thế chiến vừa chấm dứt, cuộc nội chiến lại xảy ra. Một giáo phận miền núi càng gặp khó khăn trăm  chiều. Đức cha Jean Sion Khâm vẫn cố chèo chống.

 

  Quân đội Nhật đã tập trung các vị thừa sai về Nha Trang. Sau một thời gian, tất cả đã được trả tự do và trở lại địa sở (7-1946). Trước tình hình mới của xã hội. Ngài xúc tiến việc thiết lập Trường Lý Đoán (Đại chủng viện) riêng cho giáo phận Kontum, vì tình hình lúc bấy giờ không thể gửi các chủng sinh vào Sài Gòn hay ra Hà Nội. Ngày 16-6-1944, ngài ban hành Facultates Majoris Seminarii Kontumensis. Năm 1946, ngài ký ban hành Statuta Ordinarii pro Anlumnis Majoris Kontum. Trường Lý Đoán đã bắt đầu hoạt động với con số khiêm tốn khoảng 10 chủng sinh. Chính Đức cha làm giám đốc, cha Crétin làm giáo sư, cha Thomann làm quản lý.

 

  Song song việc đào tạo linh mục, ngài xin phép Toà Thánh cho thiết lập hội dòng Ảnh Phép Lạ, một hội dòng nữ người dân tộc. Lúc đầu không được Toà Thánh chấp thuận, vì trong Giáo Hội đã có nhiều hội dòng rồi. Đức cha không bỏ cuộc, ngài tha thiết trình bày với lý lẽ vững chắc: muốn có những linh mục, tu sĩ bản địa lo cho người bản địa, thì cũng cần có những bà mẹ Công giáo bản địa được chuẩn bị đàng hoàng như vậy, vì thế việc thiết lập một hội dòng đào tạo các thiếu nữ dân tộc thật là chính đáng và thiết thực. Thánh Bộ đã chấp thuận. Hội dòng đã được chính thức thành lập ngày 6-4-1947. Qua dòng lịch sử, cũng như hội Yao Phu, hội dòng Ảnh Phép Lạ đã giữ một vai trò độc đáo và quan trọng trong giáo phận.

 

  Ngày 19-8-1951, Đức cha Jean Sion Khâm qua đời tại Montbeton (Pháp), cha Paul Seitz Kim lúc bấy giờ đang coi Cô nhi viện Kitô Vua ở Thái Hà Ấp, Hà Nội, được bổ nhiệm kế vị. Lễ tấn phong đã diễn ra tại nhà thờ lớn Hà Nội ngày 3-10-1952. Dưới sự dìu dắt của vị tân giám mục, giáo phận Kontum đã có những bước tiến vượt bậc. Là con người đầy nhiệt huyết, với tuổi đời 46, ngài đã hăng say bắt tay củng cố giáo phận sau nhiều năm chiến tranh.

 

  Nhờ số giáo dân Kinh tăng vọt qua các đợt di cư từ Bắc hoặc lên dinh điền từ miền Trung, nhiều xứ họ sầm uất đã mọc lên khắp miền Cao Nguyên. Sinh hoạt của giáo phận sống động hơn nhiều. Nhiều xứ họ mới đã hình thành dọc theo các tuyến quốc lộ 19, 14 cũng như các tỉnh lộ mới mở. Số linh mục cũng đông đảo hơn, có lúc đã lên tới cả 100. Nhiều anh chị em tại các dinh điền đã hăng say gia nhập Giáo Hội Chúa. Ơn gọi chủng sinh và tu sĩ cũng dồi dào, đặc biệt từ các xứ đạo di cư miền Buôn Ma Thuột. Công cuộc truyền giáo mang một sức sống mới.

 

  Đây cũng là giai đoạn truyền giáo cho người Gia Rai được tiếp nối với sự xuất hiện của cha Jacques Dournes, một nhà nhân chủng học, một vị thừa sai lỗi lạc. Ngài đã từ phía dân tộc Cơ Ho, Lâm Đồng, đi xuyên qua lãnh thổ bộ tộc Ê Đê vào vương quốc bộ tộc Gia Rai. Ngài dừng chân ở Cheo Reo, Phú Bổn ngày 1-8-1955.

 

  Ngay từ năm 1850, Đức cha Cuénot Thể và các vị thừa sai đã nghĩ tới việc truyền giáo cho bộ tộc Gia Rai. Cha Fontaine Khâm đã được phân nhiệm lo công tác này. Trung tâm Plei Chư đã được thiết lập riêng cho công việc này. Nhưng kết quả không được dồi dào như nơi các bộ tộc Xơ Đăng hay Ba Na. Các địa sở Gia Rai Hạ Bầu (huyện ĐăkĐoă), Plei Ngol Khop (huyện Đức Cơ) hoặc Plei Kơbey (huyện Sa Thầy) là những thành quả khiêm tốn của thuở ban đầu.

 

Giai đoạn 3: Giai đoạn trưởng thành giáo phận chính toà Kontum (1960- )

 

1. Tiến bước dưới ánh sáng Công đồng Chung Vatican II (1960-1975)

 

  Ngày 24-11-1960, Toà Thánh đã ban hành Tông hiến Venerabilium Nostrorum thiết lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam. Giáo phận đại diện tông toà Kontum trở thành giáo phận chính toà. Giáo phận vào thời điểm này có 73.966 giáo dân, 271 họ đạo và 66 linh mục.

 

  Ngày 10-11-1962, Đức Thánh Cha Gioan XXIII long trọng khai mạc Công đồng Vatican II. Làn gió Chúa Thánh Thần đã thổi tung mọi cánh cửa tâm hồn và ban sức mạnh cho các người thợ trong cánh đồng truyền giáo Tây Nguyên. Nhiều hội dòng đã tình nguyện lên truyền giáo miền Tây Nguyên. Tiên phong là dòng Thánh Phaolô thành Chartres thuộc tỉnh dòng Sài Gòn, dòng Mến Thánh Giá Kontum, sau đổi thành Dòng Nữ Vương Hoà Bình và chuyển xuống Buôn Ma Thuột chuẩn bị thiết lập giáo phận mới.

 

  Việc cử hành phụng vụ bằng tiếng bản xứ đã có một tác động mạnh mẽ. Sinh hoạt trong các xứ họ đã sôi nổi hẳn: ngày càng có nhiều người tin theo đạo. Bộ mặt Tây Nguyên cũng đổi mới. Các thị tứ đã mọc lên nhanh chóng. Đời sống kinh tế phát triển mạnh, mặc dù chiến tranh vẫn đang tiếp diễn. Từ năm 1965, nhiều đồng bào từ các dinh điền ở xa đã chạy về thành thị, đặc biệt là thị xã Pleiku. Số đồng bào này quy tụ lại thành những họ đạo mới như Hoa Lư, Hiếu Nghĩa, Hiếu Đức, Hiếu Lễ, Phaolô, Trà Bá II.

 

  Năm 1969, các linh mục và các tu sĩ dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam, do cha Antôn Vương Đình Tài dẫn đầu, đã lên tiếp nối công trình của cha J. Dournes. Chiều ngày 10-10-1969, Đức cha P. Léo Seitz Kim đích thân lái xe Land Rover đưa cha Antôn Tài, thầy Giuse Tín, thầy Phêrô Mầu và tu sĩ Lêônarđô xuống Pleikly. Đứng ngay bên đường nhìn về phía làng, ngài đọc một đoạn Thánh Kinh, giơ tay cầu nguyện và chúc lành cho công việc truyền giáo của 4 vị thừa sai Việt Nam rồi trở về. Các thừa sai mới nhận được bài học hoàn toàn phó thác để cho Thần Khí Chúa hướng dẫn. Bắt đầu trọ trẹ vài tiếng Gia Rai vào làng xin trú đêm! Bị từ chối, vì gặp ngày kiêng kỵ của làng, các vị gặp cảnh bơ vơ. Sau đó, các vị mượn được một “gian nhà bỏ hoang” làm nơi tạm trú. Công việc bắt đầu như thế trong khi chiến tranh mỗi ngày mỗi thêm ác liệt! Bao khó khăn thử thách dồn tới! Cơ sở mới gầy dựng bước đầu bị đốt cháy, các ngài phải “rời” khỏi Pleikly, rút về thị xã Pleiku lập trung tâm Maranatha gần Pleiku Roh, sau chuyển xuống Pleichuet. Nhưng hạt giống đã gieo cứ âm thầm phát triển và nở rộ đúng vào dịp Đức Thánh Cha tôn phong 117 vị Tử Đạo tại Việt Nam ngày 19-6-1988! Tới nay con số tân tòng Gia Rai đã lên tới 15.000 trong khi số dự tòng cũng trên 8.000. Mỗi dịp lễ Phục Sinh, tổng cộng số lãnh nhận phép Thanh Tẩy thuộc 3 Trung tâm Truyền giáo Gia Rai - Pleichuet, Pleikly và Cheoreo-Tơlui - cũng lên tới trên 1.500 người.

 

  Với sức sống phát triển mạnh mẽ như thế, năm 1967 Toà Thánh chấp thuận cắt tỉnh Đăklăk khỏi giáo phận Kontum và tỉnh Phước Long của giáo phận Đà Lạt để thiết lập giáo phận mới Ban Mê Thuột. Giáo phận Kontum còn 3 tỉnh Kontum, Pleiku, Phú Bổn và từ 1975, giáo phận Kontum lại sang một trang sử mới.

 

2. Tiếp bước theo quyền năng Thần Khí Chúa (1975- )

 

  Nếu 3 lần dọn nhà bằng một lần cháy nhà, thì một lần di tản còn tệ hơn cả cháy nhà. Thế mà dân miền Kontum-Pleiku đã phải di tản tới 3 lần: 1968, 1972 và 1975. Mỗi lần di tản có khi 2,3 tháng sau mới trở về. Họ bỏ nhà cửa chạy xuống Nha Trang, có người xuống tận Sài Gòn. Một số lớn giáo dân đi mà không về lại. Số trở về phần đông lại quá muộn! Gần 100 linh mục nay còn lại 45 vị. Chỉ sau 13 năm, đã có tới 15 linh mục qua đời trong khi chỉ thêm có 4 linh mục mới. Tuổi trung bình là 61. Tiểu chủng viện ngưng hoạt động từ cuối năm 1975. Đại chủng viện giải tán năm 1976. Đặc biệt gần 30.000 giáo dân Xơ Đăng và nhiều cộng đoàn giáo dân Ba Na miền Bắc Kontum sống cảnh “côi cút” nhiều năm. Không linh mục, không tu sĩ, không nơi thờ phượng, tất cả đều phó thác cho các Yao Phu bám trụ coi sóc! Các dịp lễ Giáng Sinh, Phục Sinh phố xá Kontum tràn ngập giáo dân Xơ Đăng, Ba Na về dự lễ. Cơm gói cơm ống nằm la liệt sân cỏ nhà thờ chính toà, sân toà giám mục… để chờ dự lễ.

 

  Sau lại có thêm nhiều giáo dân từ các vùng khác lên lập nghiệp, tại vùng sâu vùng xa, tại các nông trường, các điểm kinh tế mới. Số giáo dân đã tăng lên tới 156.770 năm 1998. Đó là chưa tính số giáo dân tại các vùng sâu, vùng xa, những vùng nông trường, kinh tế mới vì chưa có điều kiện lui tới để làm thống kê! Con số giáo dân hiện nay khoảng trên 180.000.

 

  Miền Truyền giáo Tây Nguyên đã bước đầu thành công nhờ sáng kiến và quyết tâm của Thánh giám mục tử đạo E.T. Cuénot Th

II. ĐỊA LÝ VÀ DÂN SỐ >>
 
Ý CẦU NGUYỆN THÁNG 10-2024
Cầu nguyện cho sứ mạng được chia sẻ
Chúng ta hãy cầu nguyện để Giáo Hội được tiếp tục nâng đỡ bằng tất cả những phương thức có thể, một lối sống công nghị, việc đồng trách nhiệm, thúc đẩy sự tham gia, sự hiệp thông và chia sẻ sứ mạng giữa các linh mục, tu sĩ và giáo dân.
For a shared mission
When bishops and laypeople meet for the second part of the Synod on Synodality during October, the faithful are asked to pray that “the Church continues to sustain a synodal lifestyle in every way.”
Phim - Nhạc - Suy niệm
Xem chuyên mục Media Online
Từ Điển Online:     

Truyền Tin

Email: tt.march25@gmail.com

Website: truyen-tin.net

Online since: May 2010

Tìm kiếm nội dung
(Gõ từ khóa vào vào khung dưới đây)
Tìm kiếm trong Google
Nhấn vào >> Google Search

Liên hệ

Đặt làm trang chủ

@