Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông, trùm họ
Anrê Nguyễn Kim Thông (quen gọi là Năm Thuông), sinh năm 1790, tại Giáo xứ Gò Thị, Giáo phận Quy Nhơn.
Lớn lên, Anrê lập gia đình. Vợ chồng sống thuận hoà hạnh phúc, nhờ siêng
năng sốt sắng thờ phượng Chúa. Đặc biệt ông rất chú trọng việc dạy dỗ
con cái về đàng nhân đức, nhờ đó hai người con của ông đã được Chúa gọi
làm Linh mục và tu sĩ.
Dân làng thấy ông hiền lương đạo đức, nên bầu lên làm xã trưởng, còn
giáo hữu trong xứ thì cử ông làm trùm họ. Ông luôn luôn chu toàn bổn
phận cách hết sức nhiệt thành chu đáo, sẵn sàng hy sinh giúp đỡ mọi
người, không phân biệt lương giáo. Ông là người cộng tác đắc lực với các
Linh mục trong việc tông đồ mở mang Nước Chúa. Và trong thời bách hại,
nhà ông là nơi trú ẩn an toàn cho các vị truyền giáo.
Ngoài ra tinh thần bác ái tông đồ, ông còn có lòng sùng kính Đức Mẹ cách
đặc biệt. Hằng ngày ông sốt sắng lần chuỗi Môi Khôi, suy gẫm các mầu
nhiệm trong đời sống của Chúa và Đức Mẹ, noi theo gương lành các ngài.
Ông có đứa cháu tên là Út, tính tình ngang bướng, ăn chơi, truỵ lạc. Ông
thương nó, muốn giúp nó cải thiện đời sống, bỏ thói phóng đảng chơi
bời; ông đã nhiều lần khuyên bảo mà nó không chịu nghe, nên ông tức giận
quở mắng nó. Nhưng thay vì sửa mình, nó trở lại thù ghét ông, tố cáo
ông chứa chấp giáo sĩ. Quan liền cho lính đến bắt ông, dẫn về giam tại
tỉnh Bình Định.
Nhờ lúc làm xã trưởng, ông thường tiếp xúc và quen biết với quan, nên dù
bị tù ngục, ông không phải chịu đánh đòn tra tấn, mà thỉnh thoảng còn
được về thăm gia đình. Dùng dịp nầy, ông lui tới với vợ con, khuyên bảo
khuyến khích mọi người trung thành bền đỗ tin theo Chúa. Thấy vợ con
thương khóc muốn chuộc ông về sum họp gia đình, ông nói: Tôi đã già rồi,
không còn ham sống mà làm gì nữa. Tôi sẵn sàng chịu chết vì Chúa. Xin
đừng ai vận động xin thả tôi.
Rồi ông tình nguyện trở vào ngục. Trong thời gian 3 tháng ở đây, nhiều
lần quan dụ dỗ ông bỏ đạo, bước qua Thập giá, để được trở về với gia
đình. Nhưng ông luôn luôn từ chối, nhất quyết trung thành theo Chúa đến
cùng. Thế nên quan kết án đày ông vào Mỹ Tho, một tỉnh miền Nam. Vì
đường xa xôi, phần bị gông cùm xiềng xích nặng nề và tuổi già sức yếu,
ông phải đi hết sức mệt nhọc khổ sở, nên khi vừa tới Mỹ Tho, ông té ngã
xuống đất, trút hơi thở cuối cùng, ngày 15-7-1855.
Đức Thánh Cha Piô X đã phong Chân phước cho ông ngày 2-5-1909. Và ngày
19-6-1988, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã suy tôn ngài lên bậc Hiển
thánh.